Hội Họa Đông Dương, Lịch Sử Hình Thành Và Phát Triển
Trên phương diện văn hóa và lịch sử hội họa dân tộc, hội họa Đông Dương là giai đoạn tiền đề của hội họa hiện đại. Đây là một giai đoạn hội họa bắt đầu hình thành trong thời kỳ mà nước ta còn chịu sự đô hộ của thực dân Pháp. Một lớp họa sĩ trẻ tài năng được đào tạo một cách bài bản và khoa học theo lối mô hình mỹ thuật phương Tây. Hội họa truyền thống và hội họa phương Tây không những không mâu thuẫn mà có sự dung hòa rất ngoạn mục. Sau đây mời các bạn cùng LYNX International tìm hiểu về hội họa Đông Dương, lịch sử hình thành và phát triển.
1. Lịch sử hình thành nền nghệ thuật hội họa Đông Dương
Cách đây 85 năm vào ngày 7/10/1924, tại Hà Nội. Toàn quyền Đông Dương là ông Martial Merlin đã ký sắc lệnh cho thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương. Với tên tiếng Pháp là trường École superieure des Beaux-Arts de L’Indochine. Người đảm nhiệm kiêm chức hiệu trưởng lúc đó là họa sĩ người Pháp: Victor Tardieu. Sự kiện này được xem là một bước ngoặt của lịch sử nền hội họa Việt Nam.
Trong thời gian với 20 năm hoạt động (1925-1945). Trường Mỹ thuật Đông Dương đã đào tạo ra hơn 128 họa sĩ nổi bật. Trong đó có các ngôi sao sáng của nền hội họa Việt Nam. Như các danh họa tiêu biểu nhất đó Nguyễn Phan Chánh, Lê Văn Đệ, Tô Ngọc Vân, Lê Phổ, Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái, v.v…
Trong đó nổi bật là cuộc triển lãm đầu tiên mang tính lịch sử bước ngoặt ở Việt Nam thời bấy giờ, được khai mạc tại trường Mỹ Thuật Đông Dương, ở địa chỉ số 102 phố Reinach, Hà Nội. Đã đánh dấu sự xuất hiện của xu hướng hội họa hiện đại Việt Nam.
Năm 1931 với triển lãm thuộc địa tại Paris, tác giả nòng cốt là những sinh viên xuất sắc của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Năm 1932 tiếp tục mang đi triển lãm tranh của sinh viên của trường tại Rome, Italia. Năm 1933, triển lãm tranh sinh viên của trường tại khu vực Cologne, Pháp. Năm 1933, triển lãm tại Salon của các nghệ sỹ Việt tại Paris gồm có các họa sỹ Nam Sơn, Lê Văn Đệ, Lê Phổ. Năm 1934, triển lãm tranh sinh viên của trường tại Milan của Italia.
Theo những tài liệu để lại thì có 16 nhà học giả và họa sỹ phương Tây trực tiếp tham gia công việc giảng dạy tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Trong đó có 11 họa sỹ, 2 nhà điêu khắc, 1 kiến trúc sư, 2 chuyên gia về khảo cổ. 11 người trong số đó đã đạt các giải thưởng Đông Dương, 2 người đoạt giải Roma, 2 người đoạt giải Madagacar và 1 người đoạt giải Blumenthal.
Có sáu giáo sư người Việt Nam tham gia giảng dạy, trợ giảng tại Trường gồm: Nam Sơn, Giorges Khánh, Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Xuân Phương và Tô Ngọc Vân.

2. Những đặc trưng của nền nghệ thuật hội họa Đông Dương
2.1 Áp dụng những nét thẩm mỹ phương Tây
Các tác phẩm hội họa Đông Dương giai đoạn 1925-1945 đã được xây dựng trên những kiến thức mỹ thuật hoàn toàn mới (Giải phẫu tạo hình, Luật xa gần, Khoa học màu sắc), làm cho những bức tranh thay đổi cơ bản về hình thức, nội dung. Tuy vậy, không phải vì thế mà họ rời xa hội họa truyền thống, thực tế đã chứng minh sự trở về với nguồn cội thể hiện trong tác phẩm hội họa từ đề tài, phong cách, kỹ thuật cho đến nội dung và thẩm mỹ.
2.2 Dấu ấn cá nhân người nghệ sỹ trong tác phẩm
Tính chuyên nghiệp trong sáng tạo với nền tảng học vấn mới, tinh thần của dân tộc là những nét cơ bản hình thành nên người họa sỹ Việt Nam giai đoạn hội họa Đông Dương. Tất cả đã tạo nên một thế hệ họa sỹ tiên phong giàu tài năng có nhiều góp cho nền hội họa Việt Nam hiện đại
2.3 Hội họa đã phản ánh hiện thực đời sống
Hội họa Đông Dương đã thoát ly tôn giáo, điển hình hóa hình ảnh cuộc sống thực tại và gắn liền với đời sống thị dân. Tất cả những điều đó đã hình thành nên nền hội họa dành cho cuộc sống như bản chất vốn có của nó.
2.4 Đa dạng về chất liệu
Hội họa Đông Dương giai đoạn 1925-1945 đã xuất hiện những chất liệu hoàn toàn mới làm nên sự đa dạng trong chất liệu tác phẩm. Nó cũng tạo điều kiện cho các họa sỹ lựa chọn chất liệu phù hợp với mình, cũng nhờ sự đa dạng về chất liệu đã tạo nên những hiệu quả về thị giác đa dạng trên tác phẩm nhờ kỹ thuật thể hiện và những đặc trưng của chất liệu.

3. Đặc điểm khác biệt của hội họa Đông Dương với mỹ thuật truyền thống dân tộc là gì
Mỹ thuật hội họa truyền thống Việt Nam với những di sản điêu khắc, hội họa từ đình, chùa, các di tích lịch sử văn hóa, tranh dân gian… mà thế hệ cha ông ta đã để lại là vô cùng đặc sắc. Những nét đặc thù cơ bản nhất của mỹ thuật truyền thống là giàu sự trang trí, tính cách điệu cao, đơn giản, thể hiện tại nhiều tác phẩm tượng tròn, tượng phù điêu, những bức tranh dân gian nổi tiếng như bức Tượng phật bà nghìn mắt nghìn tay, Tượng phật Adi đà, Tô Vũ chăn dê, Phù điêu tại các đình, chùa và các tranh về Thầy đồ cóc, Đánh vật, Hái dừa, Đánh nghen, Ngũ hổ, Cá chép trông trăng… đã tạo nên những giá trị lớn cả về mặt nghệ thuật cũng như phục vụ đời sống văn hóa tín ngưỡng cho cộng đồng.
Mỹ thuật truyền thống Việt Nam bao gồm các hình thức điêu khắc truyền thống, điêu khắc dân gian, tranh dân gian, tranh thờ… Những nét đặc trưng của mỹ thuật truyền thống là giàu tính trang trí, tính cách điệu cao, đơn giản và rất chân thực.
Trong khi đó nền hội họa Đông Dương với sự ra đời của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, mỹ thuật Việt Nam hiện đại đã bước ra ánh sáng của thời đại mới, hòa nhập với dòng chảy đương đại với các nền hội họa thế giới.
Trong giai đoạn khởi đầu với nhiều sự mới mẻ này, các họa sỹ Việt Nam đã kịp thời nắm bắt và chắt lọc những tinh hoa của nghệ thuật nhân loại để phát triển tình cảm và những sáng tạo của mình một cách không thụ động.
Với những kiến thức tạo hình khoa học nhiều người đã tìm được phong cách riêng để vận dụng vào sáng tạo nên tác phẩm đặc sắc nhất. Có lẽ hơn đâu hết thì cái hồn, cốt cách dân tộc và thiên nhiên con người đất nước và văn hóa Việt Nam vẫn là những cốt lõi căn bản trong tư duy và tình cảm của người họa sỹ Việt Nam giai đoạn Đông Dương.

4. Tại sao tranh hội họa Đông Dương ngày càng được chú ý?
Tranh hội họa Đông Dương liên tục cán mốc triệu USD trên các sàn đấu giá quốc tế là do những năm gần đây, các nhà sưu tập trong nước cúng như quốc tế bắt đầu quan tâm mạnh mẽ đến hội họa Việt Nam. Những lần đấu giá lên tới hàng triệu USD với mong muốn đưa tranh Việt hồi hương ngày càng nhiều.
Bên cạnh đó, một lượng rất lớn các nhà sưu tập tại khu vực châu Á cũng dành sự quan tâm và đánh giá cao nền nghệ thuật hội họa Việt Nam.
Có thể nói rằng để có được mức giá kỷ lục, chính giá trị sáng tác hài hòa mang nét đẹp nghệ thuật hội họa Việt Nam cùng với sự ảnh hưởng lớn từ các nền hội họa lớn trên thế giới, đã mang lại sức sống bền bỉ, vững vàng cho dòng tranh hội họa Đông Dương.
Sự thành công của tranh hội họa Đông Dương có thể nói là mở màn cho lứa họa sĩ được đào tạo bài bản và chuyên môn rất tốt của Việt Nam. Không hẳn đây là đại diện hay là đặc trưng cho nghệ thuật hội họa Việt, nhưng chính sức sống của nó, một lần nữa cho thấy giá trị bền vững của một nét đẹp hội họa Việt Nam.

5. Một số tác phẩm hội họa Đông Dương đấu giá ở Pháp
Tiêu điểm trong các buổi đấu giá tại Pháp là bức tranh La cérémonie du thé (Trà đàm) của danh họa Mai Trung Thứ. Tại phiên đấu giá này, bức “La cérémonie du thé” được đấu giá thành công với giá 560.000 EUR (khoảng 14 tỷ đồng).
Bức “Le tricot” (Đan len) với chất liệu đặc trưng là mực và màu trên lụa, được vẽ vào năm 1941 của họa sỹ Lương Xuân Nhị. Tác phẩm có mức giá khởi điểm 160.000 EUR nhưng đã được bán ra với mức giá cao nhất là 590.000 EUR (khoảng 15,5 tỉ đồng).
Bức tranh sơn mài ‘Hội Đình Chèm’ của họa sỹ Nguyễn Văn Tỵ đã đước đấu giá thành công với giá 832.000 € (972.000 USD) tại một cuộc đấu giá ở Pháp, đây là một trong những mức giá kỷ lục nhất đối với một tác phẩm nghệ thuật của Việt Nam tại Châu Âu. Tác phẩm là một bức tranh sơn mài có kích thước là 98×245 cm với tổng thể 5 tấm vóc được tạo ra vào năm 1942.

Có thể nói rằng hội họa Đông Dương, lịch sử hình thành và phát triển là một phần làm nên sự tự hào về mỹ thuật của một dân tộc có hàng ngàn năm lịch sử và cả một kho tàng mỹ thuật cổ đáng để thế giới ghi nhận và trân trọng. Việc tiếp thu cái nhìn của thẩm mỹ hiện đại Châu Âu một cách có chắt lọc đã tạo nên kỳ tích, hội họa Đông Dương giai đoạn 1925- 1945 đã để lại cho đời những tác phẩm đậm đà bản sắc văn hóa Việt. Các tác phẩm của hội họa Đông Dương là một minh chứng chân xác nhất, rất đáng tự hào của một giai đoạn hội họa tuy ngắn ngủi nhưng đầy vinh quang trong một thời kỳ lịch sử đầy biến động của đất nước.