Ấn triện bằng vàng quý hiếm, của Hoàng đế Minh Mạng (1791-1841) món bảo vật của Việt Nam, chuẩn bị được đấu giá tại Pháp
Ngày 31 tháng 10 tới, sẽ diễn ra 1 cuộc đấu giá Ấn triện bằng vàng của Hoàng đế Minh Mạng. Món bảo vật của Việt Nam được ước tính sẽ vào khoảng 2-3 triệu euros, tuy nhiên có thể phiên đấu giá còn có thể đưa bảo vật này lên cao hơn thế rất nhiều. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu thêm về ấn triện này nhé
VIỆT NAM, Hoàng gia Triều Nguyễn (1802-1945)
Ấn triện bằng vàng quý hiếm, được gọi là Kim bảo tỷ (金寶 璽) của Hoàng đế Minh Mạng (1791-1841)
Chiếc ấn triện bằng vàng rất chân quý này thuộc sở hữu của Hoàng gia Việt Nam, với tạo tác đế kép hình vuông, tay cầm được đúc một con rồng năm móng, thúc chạm rất tinh xảo, trên trán của linh vật cao quý này có chạm khắc chữ 王 (Vương). Đuôi rồng cong lên phía sau đầu và uốn lượn theo hình xoắn ốc, vây trên lưng nổi bật tô điểm cho cơ thể khỏe mạnh, trên thân rồng có vảy đều đặn, phần đầu với đôi sừng hươu dũng mãnh, phía dưới là mồm sư tử uy nghi với răng nanh lộ rõ. Bốn chân rồng bám chắc chắn trên mặt đế với năm móng vuốt vươn ra mạnh mẽ.
Chạy dọc hai bên cạnh của đế hình vuông là hai dòng lạc khoản chữ Hán:
“Minh Mạng tứ niên, nhị nguyệt, sơ tứ nhật, cát thời chú tạo”
明命肆年貳月初肆日吉時鑄造
Nghĩa là: Đúc vào giờ tốt ngày 04 tháng 02 âm lịch năm Minh Mạng thứ tư, tức ngày 04 tháng 02 âm lịch năm 1823.
“Thập thành hoàng kim, trọng nhị bách bát thập lạng, cửu tiền nhị phân”
拾成黃金貳佰捌拾兩玖錢貳分
Nghĩa là: Gom thành vàng ròng, có trọng lượng 280 lạng, 9 tiền và 2 phân. Tương đương với tổng trọng lượng 10,7kg
Phía dưới có khắc bốn chữ Hán tự, lối triện: 皇帝之寶 Hoàng Đế chi bảo, nghĩa là: ‘Kho báu của Hoàng đế’.
Trong suốt 143 năm trị vì của nhà Nguyễn, đã có hơn một trăm ấn triện được tạo ra. Các ấn triện với chất liệu bằng vàng, ngọc, ngà voi, bạc và đồng được các thành viên khác nhau trong Hoàng gia, tùy theo cấp bậc của họ, cũng như các quan chức, sử dụng. Dưới thời Vua Minh Mạng, người ta đã làm ra mười lăm chiếc ấn bằng ngọc và vàng, trong đó có chiếc ấn tuyệt đẹp mà chúng ta đang có cơ hội chiêm ngưỡng ngày hôm nay. Những con dấu bằng vàng ròng, được gọi là Kim bửu tỷ (金寶 璽), Kim bảo tỷ (金寶 璽) hoặc Kim tỷ (金 璽), là một trong những bảo vật hiếm thấy nhất và quan trọng nhất của nhà Nguyễn.
Hoàng đế chi bảo chắc chắn là con dấu quan trọng nhất của triều Nguyễn, chỉ được đóng lên các sắc phong và văn bản quan trọng nhất của triều đình.
Kích thước:
Trọng lượng: 10,78 kg
Triều đại nhà Nguyễn (1802-1945)
Nhà Nguyễn (阮) là triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam. Nhà Nguyễn bắt đầu thành lập từ năm 1802 và kết thúc vào năm 1945, bao gồm mười ba triều đại liên tiếp. Khoảng thời gian đó có thể được chia thành hai thời kỳ chính: Thời kỳ độc lập từ năm 1802 cho đến năm 1883 và thời kỳ thuộc địa từ sau năm 1883 cho đến năm 1945.
Sau sự sụp đổ của nhà Lê, Vua Gia Long (tên thật là Nguyễn Phúc Ánh, 1762-1820), đã dựng nên nhà Nguyễn, lập kinh đô ở Huế.
Trong số các vị Hoàng đế vĩ đại đứng đầu triều đại này có con trai của Vua Gia Long, Hoàng đế Minh Mạng (1792-1841), triều đại nhà Nguyễn dưới quyền cai trị của ông kéo dài từ năm 1820 đến năm 1841. Hoàng đế Minh Mạng được biết đến là một học giả lớn, có trình độ học vấn cao và chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, ông đã thực hiện những cải cách quan trọng nhằm tập trung quyền lực và đã đấu tranh chống lại những tư tưởng phi Nho giáo. Thế hệ con cháu người Việt mang ơn ông rất nhiều bởi công lao xây dựng Thế Miếu ở Huế (1822-1823) để thờ cúng tổ tiên. Con trai cả và người kế vị của ông, Vua Thiệu Trị (1841-1847), theo đuổi chính sách bảo hộ phù hợp với chính sách của cha mình. Con trai Vua Thiệu Trị là Tự Đức (1829-1883), vị Hoàng đế cuối cùng của thời kỳ độc lập, kế vị ông ở Huế từ năm 1847 cho đến khi ông qua đời. Tiếp nối với hai vị Hoàng đế trước, ông ủng hộ bản sắc riêng của Việt Nam và chính sách Nho giáo lấy cảm hứng từ Trung Hoa, tránh xa các thương nhân và người truyền giáo để bảo vệ bản thân khỏi bất kỳ ảnh hưởng nào của nước ngoài.
Tuy nhiên, Chiến tranh Pháp xâm lược Đại Nam mở đầu bằng trận chiến ở cửa biển Đà Nẵng năm 1858 đã đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ thuộc địa, dẫn đến sự tan rã tạm thời của triều đình phong kiến Việt Nam.
Tuy nhiên, Chiến tranh Pháp xâm lược Đại Nam mở đầu bằng trận chiến ở cửa biển Đà Nẵng năm 1858 đã đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ thuộc địa, dẫn đến sự tan rã tạm thời của triều đình phong kiến Việt Nam.
Hàm Nghi, vị Hoàng đế thứ tám của nhà Nguyễn, người trị vị từ năm 1884 đến năm 1885, đã lãnh đạo nghĩa quân chống thực dân nhưng cuối cùng ông bị bắt và lưu đày biệt xứ. Vua Đồng Khánh được lên ngôi. Ông trị vì chỉ được ba năm rồi qua đời vì bạo bệnh ở tuổi 24. Các vị vua còn rất trẻ là Thành Thái (trị vì từ 1889 – 1907) và Duy Tân (trị vì từ 1907 – 1916) liên tiếp lên ngôi kế vị, giúp việc triều chính ổn định hơn trong một thời gian dài. Nhưng cuối cùng, Vua Duy Tân tiếp nối tinh thần dân tộc, đã đứng lên lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống lại chính quyền bảo hộ của Pháp và bị đày ra đảo Reunion. Sau đó, người con trai của Vua Thành Thái bị truất ngôi vào năm 1916, lên kế vị ông là Nguyễn Phúc Bửu Đảo với niên hiệu Khải Định. Sau chín năm trị vì, Vua Khải Định mất năm 1925 và được kế vị bởi con trai là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, sinh năm 1913, vị Hoàng đế cuối cùng của Việt Nam. Vị vua trẻ chính thức lên ngôi năm 1932 sau khi hoàn thành việc học tại Pháp và trở về nước, lấy niên hiệu là Bảo Đại.
Hoàng đế Minh Mạng (1791-1841)
Ấn triện này là một trong những hiện vật của bậc đế vương, biểu tượng cho quyền lực tối cao của Hoàng đế dưới chế độ quân chủ đế quốc.
Hoàng đế Minh Mạng, người trị vì từ năm 1820 đến năm 1841, chắc chắn là một nhà lập pháp xuất sắc nhất mà Việt Nam từng biết đến. Ông đã tiến hành các cải cách hành chính quan trọng, kế thừa công việc của vua cha Gia Long. Sau này, ông chủ trương củng cố quyền lực của ngôi vị Hoàng đế thông qua một chế độ quân chủ tập trung mạnh mẽ, chủ yếu dựa trên sự kiểm soát và phân chia đất nước thành các tỉnh mà những người cai trị hoặc quan lại được giám sát theo các quy tắc nghiêm ngặt để ngăn ngừa các hành động lạm quyền.
“Thời Minh Mạng đánh dấu sự hưng thịnh của triều đại nhà Nguyễn, đây là thời kỳ thịnh vượng nhất của đất nước. Tiếp nối công việc của cha ông, Vua Minh Mạng cho đắp đê, cầu đường, đào kênh, chỉnh trang thành phố và phát triển bến cảng. Ngoài ra, Hoàng đế đã hoàn thành bộ luật lập pháp do Gia Long thực hiện và thiết lập các quy tắc của nghi thức, từ đó trở đi, sẽ cai quản Triều đình và mọi thứ liên quan đến tổ chức của triều đình. Tất cả những việc làm đó cho thấy một bộ óc sáng ngời của vị vua anh minh.
Trích từ “LE DRAGON D’ANNAM” của H.M. BAO DAI, trang 43. Ed. Plon, 1980.
Chiếc ấn triện rồng năm móng này tượng trưng cho quyền cai trị tuyệt đối dưới triều đại nhà Nguyễn, đã trở thành biểu tượng của sự chuyển giao quyền lực.
Quyền sở hữu bảo vật này đã được chuyển giao nhiều lần, đặc biệt là khi Vua Bảo Đại thoái vị trước chính quyền Việt Nam, nơi nó được Hoàng đế giao cho đại diện chính quyền cách mạng tại sân Ngọ Môn vào ngày 30 tháng 08 năm 1945. Tại đó, vị Hoàng đế cuối cùng đã thốt lên câu nói nổi tiếng:
“Thà làm công dân của một nước độc lập còn hơn làm vua của một nước nô lệ”.
H.M. BAO DAI, tuyên bố được đưa ra trong buổi lễ thoái vị của ngài. Tháng 08 năm 1945.
Báu vật này còn mang một vai trò quan trọng và đầy tính biểu tượng tới sự can thiệp của Pháp vào Việt Nam, khi chính quyền Pháp đã cố gắng thành lập một chính phủ chống lại cộng sản với việc bổ nhiệm Vua Bảo Đại ngồi vào cương vị Quốc trưởng. Sau đó chiếc ấn báu được người Pháp trao trả cho vị vua cuối cùng của triều Nguyễn trong một buổi lễ tấn phong diễn ra vào ngày 03 tháng 03 năm 1952 tại Đà Lạt.
Sau những thất bại liên tiếp của quân đội Pháp, nổi bật là trận Điện Biên Phủ, quân Pháp rút khỏi Việt Nam và vua Bảo Đại bị phế truất năm 1955. Từ đó, ông sống lưu vong ở Pháp và không còn được hưởng trợ cấp tài chính của Pháp. Bên cạnh đó, ông cũng ly thân với người vợ đầu là Nam Phương Hoàng Hậu (Nam Phương nghĩa là hương thơm từ phương Đông) và sống một lối sống phóng túng, xa xỉ hơn.
Năm 1972, ông gặp bà Monique Baudot, người sau này trở thành vợ ông, và phong cho bà làm Công chúa Vĩnh Thụy. Sau khi Hoàng đế qua đời năm 1997, bà Baudot gọi mình là Hoàng hậu Thái Phương (Thái Phương nghĩa là hương thơm từ phương Tây). Bà tiếp tục đóng vai trò lớn trong cộng đồng người Việt hải ngoại, luôn trân trọng tưởng nhớ người chồng quá cố của mình cho đến ngày tạ thế vào năm 2021.
Xuất xứ món đồ:
– Hoàng đế Minh Mạng, triều Nguyễn (1791-1841)
– Hoàng gia triều Nguyễn (theo dòng dõi)
– Tài sản của Hoàng đế Bảo Đại, Hoàng thái tử Vĩnh Thụy (1913 – 1997) – Hoàng đế An Nam và nguyên Quốc trưởng Việt Nam.
– Được thừa kế theo di chúc cho Công chúa Vĩnh Thụy (1946-2021) năm 1997 và sau đó được giữ bởi con cháu gia đình.
Quý độc giả quan tâm có thể tham gia đấu giá, hoặc liên hệ chúng tôi tư vấn thêm về việc đấu giá tại Pháp
Nguồn bài viết : https://www.millon.com/catalogue/vente1969-arts-du-vietnam/lot101